THAY LỜI BẠT

Eric-Emmanuel Schmitt (sinh 1960) thuộc số những nhà văn Pháp nổi danh nhất hiện nay. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn ba chục thứ tiếng. Ông viết nhiều, hiện là tác giả của gần hai mươi vở kịch, sáu tiểu thuyết, chưa kể những văn phẩm thuộc về các loại thể khác. Mới chỉ quen biết một phần sáng tác của Schmitt, xin nói đôi lời về vở kịch Người khách lạ (1993) đã mang lại tên tuổi quốc tế cho nhà văn này.

Người khách lạ thuộc loại kịch mà người phương Tây quen gọi là kịch/sân khấu trí tuệ. Cái định danh không đạt lắm này (kịch hay nào chẳng đầy trí tuệ?) thực ra chỉ một loại hình văn học sân khấu xác định, mà ở đấy người ta luận về cuộc sống nhiều hơn là tái hiện nó. Loại hình này thịnh hành đặc biệt ở Pháp từ những năm 30 thế kỷ trước, với những tác phẩm kịch gây tiếng vang lớn của Giraudoux, Anouilh, Sartre, Camus, sau đó là các tác gia của kịch phi lý (họ cũng luận về cuộc sống, chứ không tả chân nó như, thí dụ, Marcel Pagnol, người từng cùng với Ionesco giữ ghế trong Viện Hàn lâm Pháp).

Kịch trí tuệ thường mang tính ước lệ một cách không giấu diếm, thậm chí khiêu khích. Chẳng hạn, trong Ruồi của Sartre hý phỏng Orestie của Eschyle, nhân vật thần thoại Oreste cùng người bạn tri kỷ Pilade đáp máy bay trở về thành phố quê hương Thèbes bị kẻ thù chiếm đóng.
Hay trong Ác quỷ và Chúa Trời cũng của tác giả này, những nhân vật sống trong thời trung đại “ứng khẩu” bằng những trích dẫn quen thuộc từ các triết gia khai minh thế kỷ XVIII. Kịch Người khách lạ của Schmitt, luận về vấn đề có hay không Thượng Đế và nếu có thì chúng ta phải quan niệm thế nào về Ngài, cũng xây dựng trên một ước lệ không che giấu, một hư cấu giả tưởng từ đầu đến cuối, có điều hư cấu ấy lại được trình bày như một sự kiện đã xảy ra với một người là danh nhân thế giới tên tuổi lừng lẫy khắp năm châu mà tiểu sử đã được nghiên cứu xuôi ngược và các chuyên gia có thể nói chính xác vào ngày nào giờ nào ông ở đâu và làm gì. Người ấy là Sigmund Freud, và Người khách lạ trong kịch của Schmitt đã đến thăm ông một cách phi thường vào tối ngày 22 tháng Tư năm 1938, trong khoảng thời gian sau khi nước Áo bị quân đội Hitler xâm chiếm và trước ngày Freud rời bỏ đất nước đi lưu vong.

Freud trong kịch Người khách lạ, và đây là điểm khác biệt với các nhân vật sân khấu của Sartre hay Camus, không phải là một con người được khái quát hóa trong nhân tính phổ biến và chỉ mang cái tên riêng ước lệ quen thuộc. Không, trước chúng ta đúng là Freud như chúng ta biết qua những tác phẩm của ông và những tư liệu chính xác nói về ông. Và cả cô con gái không chồng của ông nữa – Anna Freud, sau khi ông mất đã tiếp tục sự nghiệp của thân phụ. Freud là một nhà khoa học duy vật và vô thần chủ nghĩa kiên định. Ông luôn luôn xem tôn giáo là một ảo tưởng, có hại như tất cả mọi ảo tưởng mà phải được trút bỏ, thay thế bằng tri thức khoa học, được kiểm định chính xác về thế giới và con người. Không giống nhiều nhà vô thần luôn phế truất Thượng Đế để đặt con người vào trị trí ấy, vị cha đẻ của phân tâm học quá tỏ tường tất cả các mặt tối thẳm sâu kín trong bản tính con người, nhưng ông tin tưởng vào trí tuệ của nó – cái trí tuệ không biết sợ, chỉ theo đuổi một mình chân lý ấy (Freud suy ta ra loài người!) sẽ giúp nó tự nhận chân đến cùng và trên cơ sở ấy mà kiềm chế, khắc phục những bản năng thú vật tăm tối phá hoại văn hóa, phá hoại xã hội loài người. Freud không chỉ tuyên tín chủ nghĩa vô thần mà còn dành nhiều công sức và thời gian để chứng minh nguồn gốc phát sinh thuần túy trần thế của tôn giáo, soi sáng nó dưới giác độ phân tộc học. Song là một nhà khoa học thực thụ, ông biết tôn trọng sự thật và thẳng thắn thừa nhận những gì trong hiện tượng tôn giáo mà khoa học của ông chưa giải thích được. Chẳng hạn, cái cảm giác về sự an toàn tuyệt đối, về sự được che chở bởi một sức mạnh vĩ đại không gì chiến thắng nổi mà chỉ tôn giáo, tôn giáo độc thần, mới mang đến cho con người. Về điều này, ông nói thẳng thắn trong công trình tôn giáo học cuối cùng của mình – Moise và đạo độc thần, đến tay người đọc sau khi Freud đã qua đời (tháng Chín 1939).

Trong vở kịch của Schmitt có nói đến công trình này. Người khách lạ, không mời mà đến báo trước cho Freud rằng mặc dù ông không còn sống được lâu nữa, ông sẽ hoàn thành tác phẩm còn dở dang này và sẽ công bố đúng dưới tiêu đề vừa dẫn (cái tiêu đề thích hợp mà cho đến lúc ấy Freud còn tìm kiếm và chưa nghĩ ra!). Những lời kỳ lạ ấy cùng với một loạt tình tiết khác không thể giải thích khiến Freud phải ngờ rằng vị khách hiện ra trước ông như từ không khí này không thể là ai khác ngoài Thiên Chúa. Cái tài của người viết kịch thể hiện ở chỗ những độc giả/khán giả hiểu biết Freud sẵn sàng tin rằng nếu rơi vào tình huống như thế thì Freud sẽ hành xử và nói năng đúng như thế, còn những ai sẵn sàng tin vào Thiên Chúa (như kẻ viết những dòng này chẳng hạn) thì cũng dễ bề tiếp nhận những lời của Người khách lạ nói với Freud như là những lời của một bậc siêu nhân. Chúng tôi sẽ không kể lại diễn biến của hành động kịch: nó được cấu tạo khéo, giữ người thưởng thức trong trạng thái căng thẳng cho đến cùng. Xin chỉ dừng lại ở hai nội dung trao đổi và tranh luận giữa hai nhân vật chính: Freud và Người khách lạ. Thứ nhất, vị khách ấy thấu suốt thâm tâm của nhà bác học vĩ đại, đặt tay lên ngực ông và nói: trái tim ông khao khát tin vào tôi nhưng lý trí ông không cho phép, mà như thế là không ổn. Cần phải xét lại cái quyền tối cao mà ông dành cho lý trí. Freud không tìm ra được lời lẽ để phản bác. Thứ hai, khi Freud sử dụng lập luận quen thuộc, thách thức vị khách của mình: nếu ông là Thượng Đế làm được mọi điều thì hãy chấm dứt ngay cái cảnh khủng khiếp, ghê tởm đang diễn ra ngoài đường phố: bọn quốc xã được trang bị đến răng đang đánh đập cặp nam nữ thường dân Do Thái. Người khách lạ trả lời: “Tôi không thể”. Freud thốt lên: “Ông toàn năng cơ mà!”. Xin dẫn nguyên văn đoạn đối thoại tiếp theo:

Người khách lạ. Sai. Kể từ khi ta cho con người tự do, ta đã mất toàn năng và sự có mặt khắp nơi. Ta đã có thể kiểm soát tất cả và biết trước tất cả những gì sẽ xảy ra, nếu ta đơn giản chỉ tạo ra những chiếc máy.

Freud.  Vậy tại sao ông lại sáng tạo ra thế giới này?

Người khách lạ. Vì cái lý do đã tạo ra những sự ngu ngốc dại dột, vì cái lý do khiến mọi sự sinh thành, không có nó thì sẽ không có cái gì hết… vì tình yêu.

(Người khách lạ nhìn Freud đang có vẻ bối rối.)

Người khách lạ. Đừng nhìn ta như thế, Freud của ta, anh không muốn thế phải không, anh không thích một Thượng Đế biết yêu thương? Anh thích một Thượng Đế trừng phạt, lông mày cuồng giận, trán cau, tay cầm lưỡi tầm sét? Tất cả các người, loài người, đều thích một người Cha khủng khiếp hơn là một người Cha yêu thương.

(Đến đây thì Người khách lạ quỳ gối trước Freud và nói tiếp: )

Và tại sao ta lại tạo ra các người nếu như không phải vì tình yêu? Nhưng các người không muốn thế, không muốn nhận lòng yêu mến của Thượng Đế, không muốn có một Thượng Đế khóc… một Thượng Đế khổ đau…

Ở đây, tác giả vở kịch đụng thẳng đến tâm điểm của cuộc tranh luận về sự tồn tại của Thượng Đế diễn ra đã nhiều thế kỷ ở phương Tây và phương Đông. Không nói đến đạo Hồi, ngay cả trong đạo Phật, một tôn giáo khởi thủy là vô thần, Đức Phật khi đã đắc đạo chính quả thì cũng trở thành toàn tri và toàn năng (Phật Bà Quán thế âm Bồ Tát của chúng ta chẳng nghìn mắt nghìn tay là gì?). Chưa toàn năng thì chưa phải là thánh thần tối thượng. Nhưng nếu đã thế thì vì sao vị thần nhìn thấy hết và có thể làm hết mọi điều ấy lại để cho thế giới mình tạo ra ngập ngụa trong tội lỗi và cái ác như thế? Tiếp lời Ivan Karamazov của Dostoievski và nhiều nhân vật văn học khác, Freud trong kịch của Schmitt suy kết: Thượng Đế hoặc bất lực hoặc là một ác ôn. Thế thì Thượng Đế ấy cần gì cho loài người? Câu hỏi này, mà thần học chính thống trong bằng ấy thế kỷ chưa bao giờ giải đáp được thỏa đáng, ám ảnh nhiều bộ óc xán lạn, không duy thần hẳn hoi, có điều họ trung thực với lương tâm mình. Một trong những trí tuệ như thế, triết gia Nga Nikolai Berdiaev (1874-1947) thú nhận trong sách Tự nhận thức của mình rằng điều ông lo sợ nhất là cuối cùng sẽ phát lộ ra một Thiên Chúa độc ác. Một nhà  tư tưởng Nga lớn khác, sống cùng thời với Berdiaev, Semen Frank (1877-1950) trong tác phẩm viết sau Chiến tranh thế giới thứ hai Ánh sáng trong bóng tối đặt vấn đề một cách uyển chuyển hơn, hữu lý hữu hình hơn. Ông nói: chúng ta, những con người, không thể sống mà không tin vào  Thiên Chúa chí thiện, toàn tri và toàn năng. Nhưng có thể, nơi Ngài, tình yêu mới là định tính cơ bản nhất và cần phải hiểu sự toàn năng của Thượng Đế trong quan hệ không tách rời với tình yêu? Nếu là thế, thì vẫn Thượng Đế toàn tri và toàn năng ấy có thể không “toàn mãn” tí nào (như thần học chính thống khẳng định), mà lại luôn luôn đau khổ và chia sẻ với các vật tạo những nỗi thống khổ của chúng. Rất có thể không phải một mình Frank suy luận như thế và cũng rất có thể là tác giả Người khách lạ, một tiến sĩ triết học, cũng thông tỏ và chia sẻ những suy nghĩ ấy. Nhưng suy nghĩ là một chuyện, truyền đạt những suy nghĩ tâm huyết bằng ngôn ngữ nghệ thuật lại là chuyện khác, không dễ dàng tí nào. (Trở lại với hình tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay: hình tượng có ý nghĩa tôn giáo tối quan trọng này hiện diện ở nhiều chùa chiền không chỉ ở nước ta, nhưng có lẽ đạt độ hoàn mỹ chỉ ở một nơi – chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh). Thành thử Người khách lạ trong kịch của Schmitt mới chỉ là kết quả chưa thật mỹ mãn của một thử nghiệm hình dung ra một Thượng Đế nhập thể thành người.  Nhân tiện nói thêm: trước Schmitt một trăm ba mươi năm, cũng Dostoievki ấy từng rắp tâm viết một tiểu thuyết mô tả Chúa Giêsu Kitô nhập thể một lần nữa, với tất cả các hệ quả phát sinh từ đó, nhưng ông đã nhanh chóng từ bỏ ý đồ này. Trong tiểu thuyết mà ông đã viết chỉ còn lại con người mang một vài nét phảng phất gợi liên tưởng với Kitô – công tước Myshkin. Còn trong kịch của Schmitt thì ta thấy nhân vật không phủ nhận mình là Thượng Đế, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong thể thống nhất, đã để mất không chỉ khả năng làm được tất cả, mà cả khả năng thấy biết tất cả. Về cuối kịch, khi Anna Freud tố giác nhân vật này từng theo đuổi nàng ngoài đường phố, anh ta chỉ biết ngạc nhiên chối: “Không, đấy là người khác, không phải tôi”. Anh ta thực sự không biết kẻ song trùng của mình là ai. Nếu đây vẫn là Thượng Đế thì đã rất khó nhận biết Ngài, Ngài đã nhân hóa quá triệt để. Vở kịch để lại ấn tượng hơi hàm hồ, như một trò chơi trí tuệ lúc nghiêm túc lúc bông phèng, song để công bằng cũng cần nói rằng ngay ở những đoạn bông phèng nhất Người khách lạ của Schmitt vẫn gây cảm tình cho độc giả/khán giả. Điều này chứng tỏ nhà văn Pháp tuổi còn trung niên này rõ ràng bận tâm chính diện chứ không phải phản diện với vấn đề tôn giáo và cố tìm những cách tiếp cận mới với nó. Bảy năm sau vở kịch này, Schmitt công bố tiểu thuyết Kinh phúc Âm theo Pilate khá độc đáo và không thiếu chiều sâu. Ở đây ông đưa ra những kiến giải của mình về Giêsu Kitô với các tông đồ của Người, về nhân vật lịch sử đã trở thành nhân vật của Kinh Thánh – Pontius Pilatus, về sự thắng lợi đáng ngạc nhiên của đạo Kitô giữa một thế giới đa thần giáo rất phức tạp v.v…

Có thể tranh luận với tác giả kịch Người khách lạ và tiểu thuyết Kinh Phúc Âm của Pilate về nhiều điều, nhưng không thể không thừa nhận rằng ông đã viết nên chúng với ý muốn nói lên tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề tôn giáo trong đời sống xưa kia, hôm nay và mai sau của loài người, muốn thu hút sự quan tâm của công chúng độc giả vào đây. Và việc những tác phẩm văn học ấy đang được đọc và bàn luận sôi nổi ở nhiều nước cũng là một điều đáng mừng.Nó chứng tỏ thời làm mưa làm gió của cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại, với thái độ dửng dưng ghẻ lạnh của nó đối với những vấn đề cốt tử của nhân sinh, xem ra đã qua rồi và ngày nay nghệ thuật với nhân sinh lại thể hiện ý thức về sự cần thiết có nhau, cùng sống và nuôi sống nhau.

                                            P.V.C.

 
Mất nhiều tháng vật lộn với câu chữ để hoàn thành một cuốn sách dịch nhưng thù lao họ được nhận chỉ được được vài ba chục triệu đồng. Thu nhập của một tác giả có sách best-seller chỉ được xếp ngang với một người làm ruộng!

Dịch sách 1 năm rưỡi chỉ được 23 triệu đồng

Dịch giả Dương Tường chỉ được nhận 23 triệu đồng cho việc dịch toàn bộ cuốn Lolita.

Dịch giả Dương Tường, một trong những cây đại thụ của làng dịch thuật VN nói những người làm công tác dịch thuật không sống được bằng nghề và "mình say mê thì mình làm". Lolita, cuốn sách được nhắc đến rất nhiều thời gian gần đây đã lấy mất của ông khoảng thời gian thực tế là 1,5 năm nhưng dịch giả ngoài 80 tuổi này cũng chỉ được nhận 23 triệu đồng. Các cuốn sách dịch khác của ông không được trả thù lao cao như nhiều người tưởng. Duy chỉ cuốn Cái trống thiếc của Gunter Grass là ông được nhận thêm tiền tài trợ vài nghìn đô la từ một quỹ của Đức.

Nhà văn Di Li, một tác giả có thể nói là có nhiều đầu sách bán chạy ở nhiều mảng cho hay mức thù lao chị được trả cho 1 trang dịch khoảng 350 chữ là 60.000 đồng. Do vậy nếu làm việc liên tục như 1 công chức, ngày nào cũng dịch, đều đặn trong 2 tháng thì mới hoàn thành được 1 cuốn sách khoảng 500 trang với mức thù lao chừng 20 triệu đồng. Tuy nhiên với những sinh viên mới ra trường thì họ chỉ được trả chừng 30.000 đồng/trang. "Thù lao thấp nên đương nhiên mình phải làm những nghề khác nữa. Chẳng ai sống được bằng nghề viết cả. Những người sống bằng ngòi bút rất ít, các nhà văn triệu phú như Rowling chỉ đếm trên đầu ngón tay".

Phạm Anh Tuấn, người dịch cuốn “Dân chủ và giáo dục” của John Dewey cho hay anh chỉ được nhận khoảng hơn 30 triệu đồng thù lao cho cuốn sách dày hơn 400 trang này. “Dân chủ và giáo dục” là cuốn sách chuyên ngành cực khó, đòi hỏi người dịch phải có trình độ và nghiên cứu kỹ lưỡng. Khi được hỏi anh có sống được bằng nghề dịch không? dịch giả Phạm Anh Tuấn nói luôn: "Có ai sống được bằng dịch, thù lao thấp lắm".

Hai cuốn sách anh mới dịch vừa xuất bản là John Dewey Kinh nghiệm và giáo dục và John Dewey về giáo dục, có dung lượng lên tới 1000 trang cũng chỉ được trả chưa đến 50 triệu. Chính vì dịch sách nghiên cứu vất vả và được trả bèo bọt như vậy nên dịch giả Phạm Anh Tuấn, cũng như nhiều người khác phải dành thêm thời gian đi dịch tài liệu bên ngoài bởi theo anh "họ trả tiền nhiều hơn", không đòi hỏi nhiều về chất lượng, dịch nhàn hơn nhưng có thể trả từ 8-10 đô la (khoảng 200.000 đồng) một trang. Mặc dù vậy, cũng như nhiều người khác, Phạm Anh Tuấn vẫn dành thời gian để dịch các cuốn sách nghiên cứu chỉ vì "thích".

Cha anh, dịch giả Phạm Toàn cũng là một người dịch sách có tiếng. Cho đến nay ông vẫn được biết đến như là dịch giả được trả thù lao cao vào hạng nhất nhì khi cuốn "Nền dân trị Mỹ" mang về cho ông trên 100 triệu đồng. Đây được coi là con số mơ ước với bất kỳ dịch giả nào. Tuy nhiên, theo ông, vì đợt đó ông gặp may, giám đốc NXB Tri Thức lúc ấy là GS Chu Hảo đã muốn làm một phép thử xem các dịch giả có thể sống tốt được bằng công việc của mình không bằng cách ký hợp đồng trả cho ông 200.000 đồng trên mỗi trang dịch.

Tuy nhiên, để được hưởng mức thù lao này, ông mất tới 7 tháng để hoàn thành 2 tập với dung lượng lên tới trên 1200 trang của "Nền dân trị Mỹ", một cuốn sách rất khó của tác giả Alexis de Tocqueville. Theo dịch giả Phạm Toàn, ông được trả số nhuận bút cao như vậy là một may mắn vì về sau NXB hết tiền, các dịch giả được nhận 1/2, 1/3 số tiền như vậy đã là may. Thậm chí ngay với bản thân ông, nhiều tác phẩm còn bị các nhà xuất bản lờ tịt chuyện trả tiền tác quyền.

Joe Ruelle, một trong những tác giả có sách được xếp vào hàng "best-seller" ở VN với hai cuốn Tớ là Joe và Ngược Chiều Vun Vút cho biết nếu chia số tiền nhuận bút bằng thời gian đầu tư thì thu nhập trung bình hàng tháng lấy từ việc viết sách là khoảng 9 triệu đồng. Tính riêng cuốn Ngược Chiều Vun Vút thì có thể sẽ lên đến khoảng 15 triệu/tháng cho cả năm 2012, với điều kiện sách tiếp tục bán chạy.
"Tớ Là Dâu có giá rất rẻ, nhuận bút mỗi cuốn bằng cốc trà đá còn Ngược Chiều Vun Vút có giá vừa phải, nhuận bút bằng lon Coca", Joe nói. Cây bút người Canada này cho rằng thu nhập của nhiều các tác giả từ việc viết sách có thể so sánh với thu nhập của một người làm ruộng.

Chỉ sống bằng dịch thuật thì chỉ có nước chết đói!

Các dịch giả hiện chỉ được nhận vài chục ngàn đồng cho mỗi trang sách dịch, bất kể khó hay dễ.

Dịch giả Nguyễn Đình Thành, người dịch cuốn "Nửa kia của Hitler", giải thưởng văn học dịch Hội nhà văn HN 2008 cho biết thù lao anh nhận được rất thấp, chỉ 50.000/trang, số tiền này được NXB trả để mua đứt bản quyền của cuốn sách dịch này. Do vậy khi nhân lên, số tiền anh nhận được cho cuốn "Nửa kia của Hitler" không đáng bao nhiêu.

Thêm nữa các tác giả có sách bán chạy đều không được nhà xuất bản thông báo về việc sách của mình được tái bản lần thứ mấy và không phải ai cũng được trả đủ phần trăm lợi nhuận từ các bản sách bán ra như trong hợp đồng. "Ở VN không có hiệp hội dịch thuật nên chẳng ai bảo vệ ai. Với những người chỉ sống bằng dịch thuật thì chỉ có nước chết đói. Tôi thấy tiền trả cho những người làm nghề này quá bạc bẽo nên chỉ ai thực sự đam mê với việc dịch thuật thì mới theo nổi. Bởi dịch một cuốn sách cũng phải mất vài tháng đến 1 năm mà chỉ được 15-20 triệu đồng thì chỉ có những người chẳng cần tiền mà chỉ làm cho vui mới theo nổi", Dịch giả Nguyễn Đình Thành nói.

Lê Khánh Duy, người từng đứng ra tổ chức thực hiện, dịch thuật, đóng góp ý tưởng cho nhiều cuốn sách được chú ý như: "Bóng" - Tự Truyện Của Một Người Đồng Tính, Thaksin Shinawtra - Thương trường và chính trường, Steve Jobs - Sức mạnh của sự khác biệt... cho biết người kể chuyện của Bóng, cuốn sách từng được xếp vào hàng best-seller cũng chỉ được khoảng 20 triệu đồng, mức thù lao được cho là "quá bèo".

Bán khá chạy vào thời điểm phát hành nhưng Bóng cũng chỉ bán được chừng 8000-9000 bản, các cuốn best-seller ở VN tiêu thụ được chừng 10.000 bản rất ít. "Lý do các tác giả không được trả thù lao cao cũng dễ hiểu bởi sách lậu quá nhiều, sách thật vừa ra thì sách giả đã tràn lan. Ngành xuất bản nghèo, thiếu thốn tiền mặt, lợi nhuận ít thì lấy đâu ra tiền mà trả.

Các dịch giả đa phần đều được nhận số tiền bèo bọt dù đôi khi một trang sách có thể khiến họ trăn trở nhiều đêm. Do vậy, những người làm sách ngoài đam mê còn coi như một cuộc lấy danh", Lê Khánh Duy nói. Anh cũng cũng tiết lộ thêm, mức thù lao anh nhận được khi dịch cuốn Thaksin Shinawtra - Thương trường và chính trường chỉ có 9 triệu đồng.

Các tác giả best-seller trên thế giới giàu cỡ nào?

Obama có tiết lộ rằng hai cuốn sách "Dreams From My Father" và "The Audacity of Hope" đã từng cứu ông trong thời gian tài chính bấp bênh.

Trước khi theo đuổi sự nghiệp chính trị. TT Mỹ Obama đã phát hành cuốn tự truyện có tên Dreams from My Father: A Story of Race (Giấc mơ của cha tôi) vào năm 1995. The Audacity of Hope (Hy vọng táo bạo), cuốn sách thứ 2 của Obama ra mắt năm 2006 đã nhanh chóng giành vị trí số 1 trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất trên tạp chí New York Times và Amazon. NXB Crown/Three Rivers Press sau đó đã ký hợp đồng lên đến 1,9 triệu đô la với ông Obama để giành quyền xuất bản 3 cuốn sách của ông.
Obama có tiết lộ rằng hai cuốn sách "Dreams From My Father" và "The Audacity of Hope" đã từng cứu ông trong thời gian tài chính bấp bênh. Và không thể phủ nhận rằng một phần không nhỏ thu nhập của TT Obama đến từ doanh thu các cuốn sách. Trung bình cứ 60,000 đô la bán được từ sách, TT Obama được hưởng 10% doanh số, tức là khoảng 6000 đô la. Năm 2010, gia đình Obama kiếm được 1,73 triệu đô la, phần lớn từ doanh thu các cuốn "Dreams from My Father" and "The Audacity of Hope". Cuốn sách viết cho thiếu nhi "Of Thee I Sing: A Letter to My Daughters" được phát hành cách đây không lâu của Obama cũng lọt top best-seller.

Một cái tên không thể không nhắc tới là Stephenie Meyer, tác giả của "Chạng vạng",  loạt tiểu thuyết gồm 4 cuốn đã bán được hơn 100 triệu bản trên toàn cầu và được dịch ra 37 thứ tiếng. Nhà văn nữ 39 tuổi này liên tục trở thành tác giả có sách bán chạy nhất nước Mỹ 2 năm liên tiếp (2008, 2009) với tổng cộng 56 triệu bản sách bán ra. Thu nhập của Stephenie Meyer trong 2 năm 2008 và 2009 đạt 90 triệu đô la. Doanh thu từ sách cùng phần trăm lợi nhuận được hưởng từ loạt phim "Chạng vạng" đã mang đến cho Stephenie Meyer khối tài sản kếch xù.     

"Những người sống bằng ngòi bút rất ít, các nhà văn triệu phú như Rowling chỉ đếm trên đầu ngón tay".

J.K. Rowling, tác giả của loạt truyện “Harry Potter” cũng nhiều năm liên tiếp lọt top những nhà văn giàu nhất thế giới khi “Harry Potter” bán được 480 triệu bản (tính tới tháng 1/2011) trên thế giới, được dịch sang 67 thứ tiếng, trở thành series sách bán chạy nhất trong lịch sử.  Tính đến tháng 3/2011, Forbes ước tính tài sản của Rowling đạt khoảng 1 tỉ đô la, phần lớn đến từ loạt truyện “Harry Potter” và phần trăm lợi nhuận của loạt phim cùng tên. Harry Potter với 8 tập phim đã trở thành series phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 7,7 tỉ đô la. Người ta ước tính thương hiệu Harry Potter có giá lên tới 15 tỉ đô la.

5/2010-4/2011, tổng thu nhập của 10 nhà văn có thu nhập cao nhất thế giới lên tới 84 triệu đô la.

Hạnh Phương

http://vietnamnet.vn/vn/van-hoa/69607/tac-gia-best-seller-co-thu-nhap-ngang-nong-dan.html